Những chiếc đồng hồ Liên Xô cổ dường như là minh chứng lịch sử, là vật chứng hiếm có của một giai đoạn hỗn loạn trong lịch sử nhân loại. Trên mặt số và cỗ máy của chúng phản ánh quá trình phát triển của Liên Xô trong nhiều thập kỷ, cho đến tận khi chế độ này sụp đổ vào năm 1990. Có thể, chúng không sở hữu một vẻ ngoài bắt mắt nhưng vẫn được ưa chuộng bởi ý nghĩa mà nó mang lại cho đất nước Liên Xô.
Không lâu sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm 1929, Dueber-Hampden, một người làm đồng hồ ở Canton, Ohio, bị phá sản. Tình trạng bán hàng chậm và thị trường tài chính xáo trộn của thế giới là một trong những nguyên nhân.
Nhưng theo các nhà sử học, việc sử dụng công nghệ lạc hậu trong khi các nhà sản xuất đồng hồ khác của Mỹ lại rất phát triển mới là nguyên nhân chính kiến Dueber phá sản. Năm 1030, ông đã đóng thùng toàn bộ công cụ, máy móc cùng với 21 công nhân và chuyển đến Moscow. Thiết bị và bí quyết của những người thợ, cùng với một số máy móc được bổ sung từ Ansonia – một nhà máy sản xuất đồng hồ khác của Mỹ, đã giúp tạo dựng nền tảng cho First State Watch Factory. Đây cũng là khởi đầu của ngành công nghiệp đồng hồ Nga mà sau này cũng trở thành một trong những ngành thành công nhất trên thế giới.
Thời điểm đó, đồng hồ được sản xuất và bán tại Nga không nhiều và các linh kiện hay movement chủ yếu được nhập từ các nhà sản xuất nhỏ ở Thuỵ Sỹ. Trong thập kỷ tiếp theo, Nga đã sản xuất hàng trăm nghìn đồng hồ. Nhiều chiếc được dựa trên thiết kế đồng hồ của Dueber-Hampden cũ, nhưng cuối cùng, người Nga đã hợp tác với các công ty đồng hồ ở nước ngoài để phát triển mạnh hơn nữa. Chẳng hạn, chính phủ Liên Xô đã ký một hợp đồng với nhà sản xuất đồng hồ Pháp Lip vào những năm 1930 – 1950 để sản xuất movement, nhờ đó mà các nhà sản xuất đồng hồ Liên Xô đã có rất nhiều cải tiến đáng kể và cho ra đời nhiều dòng movement cao cấp của mình.
Trên thực tế, việc cải tiến đồng hồ của nước ngoài, chủ yếu là cải thiện lại độ chính xác, là phương thức hoạt động của ngành công nghiệp đồng hồ Liên Xô lúc bấy giờ. Điều này có vẻ là bất hợp pháp. Chẳng hạn như chiếc đồng hồ chronometer – grade của hãng Thuỵ Sỹ Zenith với cỗ máy caliber 135, vốn rất thành công trong những năm 1950, đã bị người Nga sao chép thiết kế và cải tiến tạo ra một phiên bản đồng hồ siêu chính xác. Theo nhà sưu tập đồng hồ Mark Gordon nổi tiếng người Nga khi phỏng vấn với tờ New York Times năm 2007: “Không ai chắc chắn điều gì đã xảy ra, nhưng các bản thiết kế của bộ máy Caliber 135 đã kết thúc tại nhà máy Tschistopolsky, nơi một phiên bản na ná có tên gọi Volna ra đời”.
Volna không phải là bản copy trực tiếp. Với những phiên bản ban đầu, mặt số phụ với kim giây của Zenith đã được thay thế bằng chiếc kim giây nằm tập trung với kim chỉ giờ và chỉ phút ở vị trí trung tâm. Bộ máy của Volna được bổ sung nhiều chân kính hơn và bánh xe cân bằng lớn hơn so với của chiếc caliber 135 của Zenith. Khâu hoàn thiện cũng loại bỏ những chi tiết không cần thiết. Và đây chính là đặc trưng của đồng hồ Liên Xô: không bao giờ phô trương, không phức tạp, rườm rà; luôn tập trung vào vấn đề chính – sự chính xác của thời gian. Phiên bản sao chép có cải tiến này chính là tấm gương phản chiếu cho chủ nghĩa thực dụng của Liên Xô vào thời điểm đó.
Dần dần, những phiên bản đồng hồ bắt mắt đã trở nên thịnh hành. Những đồng hồ ghi dấu ấn cho một sự kiện lịch sử, văn hoá, thể thao cũng phổ biến hơn. Chẳng hạn như rất nhiều đồng hồ kỷ niệm Thế vận hội mùa hè 1980 tổ chức ở Moscow được ra đời. Trên mặt số cũng thường xuất hiện logo và hình minh hoạ sức mạnh quân sự hoặc kỷ niệm sức mạnh khám phá không gian và thăm dò Nam Cực và Bắc Cực của Liên Xô. Đồng hồ tuyên giáo cũng khá thịnh hành để quảng bá các chính sách chính trị như Prestroika và Glasnost. Một số mẫu đơn giản chỉ trang trí hình chiếc búa và lưỡi liềm.
Đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, những mẫu không có logo thương hiệu hay không phải ra đời với mục đích tuyên truyền cũng có vô vàn thiết kế khác nhau. Và đó chính là bức tranh của ngành công nghiệp đồng hồ Nga với hàng triệu triệu đồng hồ được sản xuất. Theo các chuyên gia, vào những năm 1950-1960, họ chỉ thua kém Thuỵ Sỹ về sản lượng đồng hồ sản xuất ra. Với sự phổ biến và kiểu cách đơn giản, cộng với việc không được giới sưu tập quan tâm, những chiếc đồng hồ thời Liên Xô được rao bán với giá khá rẻ trên mạng ngày nay.
Chistopol Sputnik
Đây là chiếc đồng hồ được làm để chào mừng sự ra mắt của Sputnik vào năm 1957. Đó là một chiếc đồng hồ chỉ giờ khá đơn giản. Trên mặt số nhỏ hiển thị giây, kim giây được thay thế bằng hình minh hoạ của Sputnik quay quanh trái đất đều đặn trong mỗi phút. Mặt số phụ này chính là điểm nhấn sinh động khiến chiếc đồng hồ hấp dẫn hơn.
Poljot Okean Chronograph
Chiếc chronograph này được sản xuất chủ yếu cho Hải quân Liên Xô trong những năm 70 và 80. Nó sử dụng bộ máy Poljot 3133, về cơ bản một phiên bản làm lại của Valjoux 7734 và là một trong những đồng hồ đầu tiên sử dụng movement này.
Phiên bản gốc của chiếc đồng hồ lặn này được chế tạo lần đầu năm 1960. Nó được coi là biểu tượng của đồng hồ Nga. Sử dụng bộ vỏ với vòng khoá có bánh răng và một miếng đệm cao su, khi ở trong môi trường có áp lực nước, nó sẽ đẩy bộ vỏ lên giúp cho đồng hồ có khả năng chống nước lên tới 200m.
Vostok Precision
Có thể nói đây là phiên bản sao chép xuất sắc bộ máy của chiếc Volna Chronometer và ở một vài chi tiết, nó tiếp tục được cải tiến trực tiếp trên chiếc Zenith 135. Thiết kế của Vostok Precision khá đơn giản, ba kim chỉ giờ, phút, giây đều được tập trung ở vị trí trung tâm, vạch chỉ giờ được khắc một nét đơn giản, các múi giờ 3, 6, 9, 12 được khắc số có chút cách điệu nhưng nhìn chung giữ được tinh thần chung là đơn giản. Về tổng thể, đây là chiếc đồng hồ có kiểu dáng và cỗ máy giống với đồng hồ Thuỵ Sỹ nhất.
Raketa Polar
Raketa được biết đến nhiều nhất là hãng sản xuất đồng hồ phục vụ các cuộc viễn chinh cực trái đất. Đồng hồ của Raketa giúp các nhà thám hiểm phân biệt được thời điểm nào là ban ngày và ban đêm. Các số chỉ giờ không chỉ giới hạn trong khung giờ 12 mà được khắc từ 1 đến 24. Raketa có nhiều mẫu vỏ và mặt số được thiết kế khá đa dạng. Bây giờ, bạn vẫn có thể tìm mua được một chiếc Polar mới tinh.